Các nhà quản lý, chuyên gia bàn giải pháp thúc đẩy phát triển năng lượng tái tạo - Ảnh: VGP/Thu Cúc
Đây
là ý kiến được trao đổi tại Hội thảo "Giải pháp chuyển đổi năng lượng
hướng tới Net Zero" do Báo Lao Động phối hợp với Bộ Công Thương tổ chức
ngày 29/5, nhằm đề xuất các giải pháp tháo gỡ nút thắt trong việc chuyển
đổi năng lượng
Các chuyên gia cho rằng để thúc đẩy thúc đẩy phát
triển năng lượng tái tạo, chuyển đổi năng lượng thành công, Việt Nam
cần cải cách thể chế, làm chủ công nghệ, thu hút đầu tư tư nhân và quốc
tế, đồng thời nâng cao năng lực giám sát và điều hành.
Theo PGS.TS
Đặng Trần Thọ - Viện trưởng Viện Công nghệ Năng lượng (Đại học Bách
Khoa Hà Nội): Năng lượng luôn đóng vai trò then chốt trong sự phát triển
kinh tế - xã hội, là "động cơ" vận hành của mọi ngành sản xuất, dịch vụ
và đời sống dân cư.
Việt Nam được đánh giá là quốc gia có tiềm
năng phát triển năng lượng tái tạo hàng đầu trong khu vực Đông Nam Á.
Việc Việt Nam đi sau nhưng phát triển nhanh trong giai đoạn 2018–2020
(đạt hơn 16,5 GW điện mặt trời chỉ trong 3 năm) cho thấy dư địa và năng
lực hấp thụ công nghệ mới rất lớn nếu được hỗ trợ về chính sách, tài
chính và hạ tầng phù hợp.
Tuy nhiên, ông Đặng Trần Thọ cũng chỉ ra những khó khăn Việt Nam đang phải đổi mặt trong chuyển đổi sang năng lượng xanh.
"Một
trong những rào cản lớn nhất trong quá trình chuyển đổi năng lượng tại
Việt Nam là sự thiếu hoàn thiện và thiếu ổn định của khung chính sách.
Đến nay, dù đã ban hành Quy hoạch điện VIII điều chỉnh và các cam kết
quốc tế về phát thải ròng bằng 0, nhưng vẫn chưa có một cơ sở luật về
năng lượng tái tạo hoặc luật chuyển đổi năng lượng. Điều này dẫn đến
tình trạng các chính sách rời rạc, thiếu tính ràng buộc pháp lý cao, khó
triển khai nhất quán giữa trung ương và địa phương", ông Đặng Trần Thọ
nhận định.
Bên cạnh đó, sự phát triển mạnh mẽ của điện mặt trời và
điện gió trong giai đoạn 2018-2020 đã làm lộ rõ những bất cập trong hạ
tầng điện, đặc biệt là hệ thống điện nền và tích trữ. Các nguồn năng
lượng tái tạo có đặc điểm phát điện không ổn định, phụ thuộc vào thời
tiết và thời gian trong ngày. Trong khi đó, hệ thống điện Việt Nam vẫn
dựa chủ yếu vào mô hình truyền thống, thiếu linh hoạt, thiếu khả năng
điều tiết nhanh và không có bộ đệm tích trữ năng lượng quy mô lớn.
Cũng
theo ông Đặng Trần Thọ, một trong những thách thức quan trọng nhưng
thường bị đánh giá chưa đúng mức trong quá trình chuyển đổi năng lượng
là hạn chế về kỹ thuật và công nghệ. Hệ thống năng lượng Việt Nam hiện
nay vẫn chủ yếu vận hành theo mô hình truyền thống, chưa được thiết kế
để tích hợp tỉ trọng cao các nguồn điện biến động như điện mặt trời và
điện gió. Điều này dẫn đến những khó khăn trong điều độ, duy trì tần số
và ổn định điện áp khi nguồn năng lượng tái tạo phát điện không đồng bộ
với phụ tải.
Trước những thực trạng và khó khăn trên, ông Đoàn
Ngọc Dương - Phó Cục trưởng Cục Điện lực (Bộ Công Thương) cho rằng:
"Chuyển đổi năng lượng theo hướng giảm dần tỉ trọng nguồn nhiên liệu hóa
thạch trong sản xuất điện sang năng lượng tái tạo, năng lượng mới là xu
thế tất yếu hiện nay trên thế giới. Việt Nam đã và đang nỗ lực thực
hiện chuyển đổi năng lượng xanh nhằm hiện thực hóa mục tiêu hướng tới
mục tiêu trung hòa carbon (hay Net Zero) vào năm 2050.
Tạo lập môi trường đầu tư minh bạch, xóa bỏ các rào cản về thủ tục đầu tư
Để
đạt tăng trưởng nguồn điện năng lượng tái tạo theo Quy hoạch điện VIII
điều chỉnh và hướng tới Net Zero vào năm 2050, trong thời gian tới, cần
xem xét, triển khai một số nhóm giải pháp cụ thể:
Thứ nhất, tạo
lập môi trường đầu tư thông thoáng, minh bạch, xóa bỏ các rào cản về thủ
tục đầu tư phát triển điện lực. Luật Điện lực số 61/2024/QH15 có hiệu
lực từ ngày 1/2/2025 và các văn bản dưới Luật về cơ bản đã giải quyết
những nút thắt liên quan tới thủ tục đầu tư các dự án điện, công khai
quy hoạch, danh mục dự án đầu tư, đưa ra các cơ chế khuyến khích cho các
dự án năng lượng tái tạo, năng lượng sạch đặc biệt là các mô hình điện
mặt trời áp mái, điện gió ngoài khơi, lưu trữ năng lượng và hydrogen
xanh. Trong thời gian tới, chúng ta cần tiếp tục hoàn thiện khung pháp
lý một cách đồng bộ, linh hoạt, hiệu quả; hoàn thiện chính sách khuyến
khích sản xuất, sử dụng năng lượng tái tạo, năng lượng mới để thu hút
mạnh mẽ các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia đầu tư phát triển
các dự án điện lực.
Thứ hai, không thể có chuyển đổi năng lượng
nếu thiếu một hệ thống lưới điện thông minh và linh hoạt. Theo Quyết
định số 768/QĐ-TTg, nhu cầu vốn đầu tư cho lưới điện truyền tải giai
đoạn 2026 - 2030 khoảng 18,1 tỉ USD đã tính toán lưới điện giải tỏa công
suất, kết nối các khu vực, vùng miền với công nghệ hiện đại… Trong thời
gian tới, chúng ta cần đẩy nhanh đầu tư các đường dây truyền tải chiến
lược, hiện đại hóa lưới điện với công nghệ số, thông minh nhằm khai thác
và sử dụng tối ưu các nguồn điện năng lượng tái tạo, năng lượng mới
trên phạm vi cả nước.
Thứ ba, cần thực hiện chuyển đổi năng lượng
trong chính các ngành tiêu thụ điện lớn. Ngành công nghiệp cần thúc đẩy
sản xuất xanh như thép xanh, xi măng xanh, sử dụng năng lượng sạch trong
khu công nghiệp. Giao thông cần điện khí hóa mạnh mẽ, phát triển xe
điện và hạ tầng trạm xạc. Song song với đó là đẩy mạnh tuyên truyền thực
hiện các quy định, giải pháp về sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả.
Thứ
tư, chúng ta cần xem xét vai trò của điện hạt nhân trong dài hạn. Đây
là nguồn điện ổn định, không phát thải CO2, có thể đóng vai trò là nguồn
nền cho hệ thống điện với tỷ lệ nguồn NLTT lớn. Theo Quyết định số
768/QĐ-TTg, để tăng cường an ninh năng lượng, đến năm 2030 - 2035 điện
hạt nhân đạt khoảng 4.000 - 6.400 MW và đạt khoảng 10.500 - 14.000 MW
vào năm 2050. Hiện Việt Nam đã tiếp tục thực hiện chủ trương đầu tư các
nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1,2 trên cơ sở nghiên cứu, hợp tác với
các đối tác sở hữu công nghệ hiện đại, an toàn, tin cậy trên thế giới.
Thứ
năm, cần một hệ thống cơ chế chính sách và thị trường điện hiện đại.
Chúng ta cần khẩn trương hoàn thiện thị trường điện cạnh tranh, xây dựng
cơ chế tín chỉ carbon, định giá phát thải, thúc đẩy tài chính xanh và
các hình thức hợp tác công tư. Đây là nền tảng để huy động nguồn lực tư
nhân và quốc tế cho chuyển đổi năng lượng. Đồng thời cũng không thể
thiếu vai trò của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, Chúng ta cần
đầu tư vào các công nghệ như lưu trữ năng lượng, AI trong điều hành hệ
thống điện, các vật liệu mới và đặc biệt là công nghệ sản xuất hydrogen
xanh. Đồng thời đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ
quá trình chuyển đổi.
Cuối cùng, quan trọng nhất là đảm bảo công
bằng trong chuyển đổi. Mỗi chính sách cần đặt con người làm trung tâm:
từ người lao động ngành than, các lĩnh vực sử dụng nhiều năng lượng
truyền thống, các cộng đồng dễ bị tổn thương đến các doanh nghiệp nhỏ,
tất cả phải được hỗ trợ, đào tạo và đào tạo lại, chuyển đổi sinh kế, để
không ai bị bỏ lại phía sau trên hành trình hướng tới Net Zero.
Chuyển
đổi năng lượng xanh là hành trình nhiều thách thức, nhưng với tầm nhìn,
sự quyết tâm và chung tay của Nhà nước, doanh nghiệp, người dân và cộng
đồng quốc tế, tôi tin rằng chúng ta hoàn toàn có thể thực hiện thành
công tiến trình này, bảo đảm an ninh năng lượng cho phát triển kinh tế
đạt mục tiêu 8% trong năm 2025 và 2 con số trong giai đoạn 2026-2030,
đồng thời đạt mục tiêu Net Zero một cách bền vững và chủ động".
Thu Cúc
Nguồn: baochinhphu.vn (29/5/2025).