Phát triển hạ tầng giao thông - xây dựng nông thôn mới trên địa bàn vùng miền núi, khó khăn tỉnh Nghệ An
Trong những
năm qua, được sự quan tâm của Chính phủ, các Bộ, ngành Trung ương, sự lãnh đạo,
chỉ đạo của Tỉnh uỷ, HĐND tỉnh, UBND tỉnh đến công tác đầu tư phát triển kết
cấu hạ tầng, phát triển giao thông nông thôn (GTNT), kịp thời ban hành các chủ
trương, chính sách về xây dựng đường GTNT gắn với xây dựng nông thôn mới (NTM),
hệ thống giao thông nông thôn khu vực miền núi
tỉnh Nghệ An đã được tập trung đầu tư xây dựng. Phong trào xây dựng GTNT
tiếp tục được duy trì và đạt kết quả đáng khích lệ. Nhân dân phấn khởi đón nhận
và hưởng ứng phong trào xây dựng GTNT, chuyển biến cơ bản về nhận thức, từng
bước khắc phục được tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào đầu tư của Nhà nước.
Nhiều tuyến đường quan trọng, kết nối vùng đồng bằng
với miền núi đã được triển khai đầu tư xây dựng, hoàn thành đưa vào khai thác
sử dụng như: Đường nối QL.1 đi thị xã Thái Hòa (nay là QL.48D), dài 29,123 Km;
Đường giao thông nối đường N5 khu kinh tế Đông Nam đến Hòa Sơn (Đô Lương) dài
28,5km; đang triển khai tiếp tục đoạn từ Hòa Sơn (Đô Lương) lên Tân Long (Tân
Kỳ) dài 28km, đường Mường Xén - Ta Đo - Khe Kiền (ĐT.543D) dài 58 km. Nâng cấp
nhiều tuyến Quốc lộ, đường tỉnh khu vực miền núi như QL.48 (Đoạn từ Km0-Km33,
Km38-Km112), ĐT.544B, hoàn thành xây dựng cầu Khe Ang 1, cầu Khe Ang 2 trên
ĐT.531 (nay chuyển thành QL48E)... Xây dựng hoàn thành 50 cầu qua sông, suối
phục vụ đi lại an toàn cho nhân dân vùng miền núi, trong đó có 6 cầu qua sông
thay thế bến đò và phục vụ phát triển kinh tế - xã hội khu vực miền núi (Khe
Ngậu, cầu Dùng II, cầu Pa Tý, cầu Châu Hội, cầu Cốc Mẳm, cầu Hiếu II); 12 cầu
treo dân sinh thuộc Đề án xây dựng 186 đảm bảo an toàn giao thông trên phạm vi
28 tỉnh miền núi phía Bắc, miền Trung và Tây Nguyên; 32 cầu dân sinh thuộc Dự
án đầu tư xây dựng cầu dân sinh và quản lý tài sản đường địa phương (Dự án
LRAMP) - Hợp phần cầu.
Triển khai chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM,
hệ thống GTNT toàn tỉnh nói chung, khu vực miền núi nói riêng tiếp tục được
quan tâm đầu tư. Đặc biệt, khi UBND tỉnh đã ban hành các quyết định hỗ trợ xi
măng làm đường GTNT thực hiện Chương trình MTQG xây dựng NTM, phong trào xây
dựng đường bê tông xi măng tại các xã phát triển mạnh mẽ, có tính đột phá, được
đông đảo nhân dân đồng tình, ủng hộ. Các huyện đã có nhiều cố gắng huy động sức
dân, dùng ngân sách địa phương, lồng ghép các chương trình, dự án, vận động
được nhân dân hiến hàng trăm ha đất cho làm đường giao thông. Từ khi triển khai
hỗ trợ xi măng đến nay, các xã của các huyện miền núi đã xây dựng được 1.877 km
đường bê tông xi măng. Diện mạo khu vực nông thôn, miền núi có nhiều thay đổi.
Đối với những xã miền núi, vùng sâu, vùng xa của tỉnh,
việc đầu tư xây dựng, nâng cấp hạ tầng GTNT trong chương trình xây dựng NTM là
rất khó khăn. Nghệ An đã chủ động ban hành bộ tiêu chí NTM cấp thôn, bản ở các
xã miền núi khó khăn. Bộ tiêu chí này đã tạo động lực, làm dấy lên phong trào
xây dựng NTM nói chung và làm đường giao thông nói riêng ở thôn, bản, có sức
lan tỏa khắp khu vực miền núi miền Tây của tỉnh. Qua thực tiễn xây dựng GTNT
tại các xã 30a và xã biên giới ở một số huyện miền núi, nhiều địa phương đã ban
hành cơ chế, chính sách động viên, khuyến khích các thôn, bản làm đường giao
thông như huyện Tương Dương hỗ 50 triệu đồng để bản, làng đầu tư xây dựng công
trình hạ tầng, trong đó có đường giao thông; huyện Tân Kỳ hỗ trợ 30 tấn xi
măng/km làm đường giao thông ngõ, xóm... Mặt khác, việc triển khai thực hiện
xây dựng đường giao thông cấp thôn, bản không những giúp người dân thật sự phát
huy vai trò chủ thể và chủ động hơn trong công việc của mình, đẩy lùi tư tưởng
trông chờ ỷ lại, mà còn tạo ra khí thế thi đua giữa các gia đình, dòng họ, giữa
các thôn, bản với nhau, từ đó thúc đẩy đồng loạt phong trào xây dựng GTNT trong
toàn xã.

Xây dựng đường GTNT tại các địa phương miền núi
Tỷ lệ nhựa hóa, bê tông hóa, cứng hóa đường GTNT trên
địa bàn miền núi ngày càng tăng cao. Năm 2015, tỷ lệ đường trục liên xã được
nhựa hóa, bê tông hóa đạt chuẩn theo cấp kỹ
thuật của Bộ Giao thông vận tải vùng miền núi là 36,9%; đến năm 2022 là
77,3% (tăng 40,4% so với năm 2015). Năm 2015, tỷ lệ đường trục thôn, bản được
cứng hóa đạt chuẩn theo cấp kỹ thuật của Bộ Giao thông vận tải vùng miền núi là
35,8%; đến năm 2022 là 67,7% (tăng 31,9% so với năm 2015). Đến hết năm 2022, cả
tỉnh đã có 327/411 xã đạt tiêu chí số 2 giao thông, đạt 79,56% (năm 2010 chưa
có xã nào đạt tiêu chí số 2). Trong đó, có 118 xã thuộc các huyện, thị xã miền
núi đạt tiêu chí số 2 giao thông (đạt 36,1% trên tổng số xã đạt tiêu chí số 2
của tỉnh).
Mặc dù đã được quan tâm đầu tư, nhưng hạ tầng GTNT ở
khu vực miền núi tỉnh Nghệ An vẫn còn nhiều khó khăn. Hiện còn 2 xã chưa có
đường từ trung tâm huyện đến trung tâm xã (Xã Nhôn Mai, Mai Sơn, huyện Tương
Dương, 2 xã này đã có tuyến QL.16 đi qua, nhưng để đi từ trung tâm huyện lên
thì phải đi vòng qua huyện Kỳ Sơn, nên hiện nay nhân dân đi bằng thuyền trong
lòng hồ thủy điện Bản Vẽ). 3 xã có đường ô tô đến trung tâm nhưng chưa được
nhựa hóa, bê tông hóa (xã Na Loi, Đoọc Mạy, Keng Đu của Kỳ Sơn). 124 thôn, bản
đặc biệt khó khăn mới có đường xe máy đến được hoặc có đường ô tô đến trung tâm
nhưng chưa được cứng hóa. Trên địa bàn tỉnh đến nay còn 9 bến đò ngang sông,
việc đi lại của nhân dân, học sinh qua sông, suối rất khó khăn, không bảo đảm
an toàn, nhất là vào mùa mưa lũ. Nhiều tuyến đường bên núi, bên vực thường bị
sạt lở; nhiều cầu tràn, đoạn tuyến vào mùa mưa lũ thường bị ngập, chia cắt giao
thông... Số tuyến đường còn lại chưa được đầu tư chủ yếu là ở các xã khu vực
III (xã đặc biệt khó khăn thuộc vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới),
một số tuyến đường có chiều dài lớn, mật độ dân cư thưa thớt, đời sống nhân dân
còn thấp, chính sách hỗ trợ theo quy định đối với các xã vùng III còn khó khăn
nên việc huy động nhân dân tham gia đóng góp chưa được tích cực.
Trong thời gian tới, việc đầu tư
phát triển hạ tầng giao thông trong đó có GTNT khu vực miền núi vẫn là một
trong những nhiệm vụ ưu tiên của của tỉnh. Phát triển giao thông phù hợp với
chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, các chương trình mục tiêu
quốc gia; phát triển giao thông bền vững, tạo sự gắn kết, liên hoàn thông suốt
giữa các vùng miền đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu phát triển kinh tế - xã
hội và nhu cầu đi lại, giao thương hàng hóa của nhân dân. Nhiệm vụ này cũng
được xác định rõ trong các nghị quyết, chương trình hành động, kế hoạch của
Đảng, Chính phủ và tỉnh Nghệ An.
Với những kết quả đã đạt được, bài học kinh nghiệm
thành công của giai đoạn vừa qua, cùng với các cơ chế, chính sách tiếp tục được
quan tâm trong thời gian tới, sự quyết tâm đồng lòng khắc phục khó khăn
của các cấp ủy, chính quyền, hệ thống GTNT vùng miền núi ngày càng được hoàn
thiện sẽ tạo thuận lợi cho nhân dân đi lại và phục vụ tốt cho nhu cầu sản xuất,
đồng thời góp phần đẩy nhanh tiến độ hoàn thành tiêu chí xây dựng NTM, phát triển
kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh tại địa phương.
Hoàng Đình Ngọc