1. Tài nguyên đất
Tổng diện tích đất
toàn tỉnh hiện có là 1.648,64 nghìn ha, trong đó đất nông nghiệp 1.485,45 nghìn
ha (chiếm 90,11%), đất phi nông nghiệp 139,43 nghìn ha (chiếm 8,46%), đất chưa
sử dụng 23,75 nghìn ha (chiếm 1,43%).
2. Tài nguyên rừng
Theo
Quyết định số 450/QĐ-UBND ngày 23/2/2021 của UBND tỉnh, tổng diện tích đất có
rừng của Nghệ An là 964.474,27 ha; trong đó, diện tích có rừng tự nhiên
786.550,3 ha, diện tích có rừng trồng 177.923,97 ha. Độ che phủ rừng đạt 58,5%.
Rừng
Nghệ An mang nhiều nét điển hình của thảm thực vật rừng Việt Nam; là
nguồn nguyên liệu quan trọng cho khai thác và phát triển các ngành
công nghiệp của địa phương. Tổng trữ lượng gỗ hiện còn khoảng
52 triệu m³, trong đó có tới 42,5 vạn m³ gỗ Pơmu. Trữ lượng tre, nứa, mét
khoảng trên 1 tỷ cây.
Rừng quốc gia Pù Mát
Tổ
chức Văn hóa, Khoa học và Giáo dục Liên hợp quốc (UNESCO) đã công
nhận và xếp hạng Khu dự trữ sinh quyển Tây Nghệ An gồm rừng nguyên sinh - Vườn
quốc gia Pù Mát có diện tích 93.523 ha, Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Huống có
diện tích 41.127 ha, Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Hoạt có
diện tích trên 34.723 ha với nhiều loài động vật, thực
vật quý hiếm có tiềm năng phát triển du lịch, đặc biệt
là du lịch sinh thái. Khu dự trữ này trải dài trên 9 huyện miền núi của tỉnh.
3. Tài nguyên biển:
Nghệ An có bờ biển dài 82 km và
diện tích vùng biển 4.230 hải lý vuông, dọc bờ biển có 6 cửa lạch (lạch Cờn,
lạch Quèn, lạch Thơi, lạch Vạn, Cửa Lò, Cửa Hội ) với độ sâu từ 1 đến 3,5 m
thuận lợi cho tàu thuyền có trọng tải 50 - 1.000 tấn ra vào.
Nguồn lợi hải sản khu vực biển Nghệ
An có trên 267 loài cá thuộc 91 họ, trong đó, có 62 loài có giá trị kinh tế
cao, có thể chi thành 2 nhóm sau: Nhóm gần bờ có 121 loài chiếm 45,3% (trong đó,
cá nổi có 20 loài bằng 7,5% cá đáy và gần đáy 101 loài, tương ứng 37,8%). Nhóm
xa bờ 146 loài chiếm 54,7% (trong đó, cá nổi 39 loài bằng 14,6%, cá đáy và gần
đát 107 loài bằng 40,1%). Có nhiều loại cá có giá trị kinh tế xuất khẩu cao.
Trữ lượng cá biển ước tính khoảng 75.000 – 80.000 tấn. Khả năng cho phép khai
thác hàng năm khoảng 35.000 tấn. Có 20 loài tôm thuộc 8 giống và 6 hộ trong đó
có tôm he, tôm rảo, tôm bộp, tôm vàng, tôm sắt, tôm đất, tôm sú và tôm hùm… Trữ
lượng 680 – 700 tấn, phân bố tại các bãi tôm chính như: Bãi tôm từ Cửa Lạch
Bạng đến Lạch Quèn (huyện Quỳnh Lưu), Bãi tôm vịnh Diễn Châu, Bãi tôm vùng Đảo
Ngư đến ngoài Đảo măt. Mực phân bố khắp vùng biển và khá đa dạng về thành phần
loài nhưng chỉ có một số nhóm loài đạt sản lượng cao như Mực cơm, mực ống và
mực nang.
Ngoài ra, biển Nghệ An còn có các
loài nhuyễn thể có giá trị kinh tế cao như: Ốc hương, Ngao, Điệp, Sò Lông…
Bờ biển Nghệ An có nhiều bãi tắm
đẹp và hấp dẫn như bãi tắm Cửa Lò, Nghi Thiết, Cửa Hiền, Quỳnh Bảng, Quỳnh
Phương... nước sạch, sóng không lớn, độ sâu thoải, độ mặn thích hợp, ở vị trí
thuận lợi về giao thông. Với bờ biển dài và nhiều cửa lạch, Nghệ An còn có
nhiều tiềm năng phát triển vận tải biển. Trong đó, có cảng Cửa Lò, cảng cá Cửa
Hội, Cảng Vissai - Nghi
Thiết, Cảng biển nước sâu Cửa Lò.
4. Tài nguyên nước
- Nguồn nước mặt: Nghệ An có trữ lượng nước mặt rất dồi dào, chủ yếu là nước mưa và nước của hệ thống các sông suối, hồ
đập. Nghệ An có hệ thống sông ngòi khá dày đặc, mật độ mạng lưới sông trung
bình khoảng 0,62km/km2 và rất nhiều khe suối lớn đan xen giữa
các dãy núi, cung cấp nước tưới cho sản xuất nông nghiệp, điều hòa khí hậu.
Nghệ An có 7 lưu vực sông (có cửa
riêng biệt), tuy nhiên 6 trong số này là các sông ngắn. Trừ sông Cả, các con
sông còn lại có lưu vực nhỏ, khoảng 2.000 - 3.000km2 với chiều
dài trung bình khoảng 60 - 70km. Sông Cả bắt nguồn từ thượng Lào, chảy qua Nghệ
An dài 375km với 117 thác lớn nhỏ, trong đó có một số thác có tiềm năng xây
dựng thuỷ điện. Bên cạnh đó còn có: Sông Hoàng Mai dài 44km, nước mặn lên quá
20km; Sông Dâu và sông Thơi (Quỳnh Lưu) là sông nước mặn hoàn toàn; Sông Bùng
dài 53km; Sông Cấm dài 47km... bắt nguồn trong tỉnh chảy thẳng ra biển với đặc
trưng đều ngắn, trữ lượng nước không lớn, lòng sông hẹp, nước chảy chậm, phần
lớn là sông nước mặn.
Ngoài các con sông trên, Nghệ An
còn có hệ thống kênh đào nối các sông với nhau như kênh nhà Lê, là hệ thống
sông đào nối Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Nghi Lộc vào đến Hưng Nguyên, với mục tiêu
chính là dẫn nước ngọt, ngăn nước mặn và phục vụ giao thông, thuỷ lợi cho các
huyện ven biển. Hệ thống thuỷ lợi Bắc, hệ thống thuỷ lợi Nam và các hồ đập lớn
như hồ Vực Mấu, đập Bà Tuỳ, hồ Vệ Vừng... có tác dụng cung cấp nước cho sản
xuất và điều hoà nước, khí hậu tiểu vùng. Nhìn chung, hệ thống thuỷ văn cung
cấp nguồn nước mặt tương đối dồi dào, đáp ứng đủ cho sản xuất và sinh hoạt của
nhân dân.
- Nguồn nước ngầm: Nguồn nước ngầm qua điều tra sơ bộ được đánh giá là khá
phong phú. Trừ vùng đất bazan ở Nghĩa Đàn, Quỳ Hợp, khả năng nước ngầm ở các
nơi còn lại đều đáp ứng nhu cầu sử dụng nước sinh hoạt.
5. Tài nguyên khoáng sản:
Nghệ An là tỉnh có nguồn tài nguyên
khoáng sản phong phú, đa dạng. Kết quả điều tra địa chất, thăm dò khoáng sản
cho thấy các loại khoáng sản có giá trị kinh tế và tiềm năng như đá hoa trắng,
quặng thiếc, vàng, chì - kẽm, sắt, đá quý, đá vôi xi măng, khoáng sản làm vật
liệu xây dựng,... Trong đó:
- Khoáng sản kim loại (thiếc, vàng,
chì - kẽm, mangan, sắt) phân bố tập trung chủ yếu tại các huyện Quỳ Hợp, Tân
Kỳ, Quế Phong, Tương Dương, Anh Sơn, Con Cuông,… Trong đó, khoáng sản chủ đạo,
có giá trị kinh tế cao là quặng thiếc (Quỳ Hợp), quặng vàng (Quế Phong, Tương
Dương).
- Khoáng sản nguyên liệu hóa và
phân bón (đá hoa trắng, barit, than bùn, than đá, phosphorit) phân bố tập trung
ở các huyện Quỳ Hợp, Tân Kỳ, Tương Dương, Anh Sơn, Con Cuông, Tương Dương, Yên
Thành, Nghi Lộc,…
- Khoáng sản nguyên liệu gốm sứ và
vật liệu chịu lửa (sét gốm, kaolin, felspat, dolomit, bột màu). Trong đó, sét
kaolin và dolomit có triển vọng để khai thác, phân bố tập trung ở các huyện Đô
Lương, Nghi Lộc, Tân Kỳ và Kỳ Sơn.
- Khoáng sản nguyên liệu kỹ thuật
và đá quý (corindon, rubi, saphir, granat, thạch anh) phân bố chủ yếu ở các
huyện: Quỳ Châu, Quỳ Hợp, Quế Phong và Tân Kỳ.
- Khoáng sản vật liệu xây dựng (đá
vôi, sét xi măng, bazan phụ gia xi măng, sắt phụ gia xi măng, cát silic, đá xây
dựng, đá ốp lát, cát, cuội sỏi xây dựng, laterit, sét gạch ngói, đất san lấp)
phong phú về chủng loại và có quy mô trữ lượng lớn, phân bố rộng trên địa bàn
các huyện, đáp ứng đủ nguồn nguyên vật liệu phục vụ cho hoạt động sản xuất và
xây dựng hạ tầng kỹ thuật, dân sinh trên địa bàn tỉnh.
Nước khoáng đã phát hiện và đăng ký
8 điểm nước nóng - nước khoáng. Trong đó 2 điểm Bản Khạng (Quỳ Hợp) và Giang
Sơn (Đô Lương) đã được tìm kiếm thăm dò, đáp ứng điều kiện để khai thác quy mô
công nghiệp./.
Cổng TTĐT Nghệ An